Bước I: Thỏ Orytolagus cuniculus 36 con được chia thành 3 lô, mỗi lô 12 con, từng cá thể được nuôi nhốt trong chuồng riêng, có cùng chế độ nuôi dưỡng, nước uống tự do.
Bước II: Chuẩn bị dịch thuốc thử là dịch chiết Dong riềng đỏ thân/củ lượng bằng nhau, sắc đặc với nước, thu lấy cao lỏng tỷ lệ 1 gam dược liệu/1ml cao lỏng (tỷ lệ 1:1). Khi thử độc tính bán trường diễn mới tiến hành pha loãng dịch chiết trên theo yêu cầu thí nghiệm.
Bước III: Tiến hành thử thuốc, trước khi uống thuốc thử lấy máu lần đầu làm các xét nghiệm sinh hóa, ngày thứ 15 lấy máu xét nghiệm lần hai, ngày thứ 30 lấy máu thỏ xét nghiệm lần cuối.
Các thỏ được uống thuốc thử liên tục 30 ngày, mỗi ngày 1 lần vào buổi sáng với lượng thuốc hằng định 2ml/kg thân trọng.
Tình trạng chung và thể trọng của thỏ
Đánh giá chức năng gan thông qua định lượng 1 số Enzym và chất chuyển hóa trong máu: ALT, AST, Bilirubin toàn phần, protein toàn phần và cholesterol.
Đánh giá chức năng thận thông qua định lượng creatinin huyết thanh.
Đánh giá chức phận tạo máu thông qua số lượng hồng cầu và thể tích trung bình hồng cầu, hematocrit, hemoglobin, số lượng bạch cầu, công thức bạch cầu và số lượng tiểu cầu.
Các số liệu thu thập được đem xử lý bằng thuật toán thống kê theo phương pháp T - test student và test Avant - Apres. Sự khác biệt có ý nghĩa khi p<0,05.
Sau 30 ngày gây độc bán trường diễn đem thỏ giết mổ, quan sát đại thể tim, gan, thận và lấy làm tiêu bản HE. Tiêu bản làm trong cùng thời gian, điều kiện, được so sánh bởi cùng 1 nhóm nghiên cứu, trên cùng 1 loại kính hiển vi, chụp ảnh tiêu bản đánh giá sự biến đổi về phương diện mô học.
Trong thời gian thí nghiệm, thỏ ở cả 3 lô hoạt động bình thường, nhanh nhẹn, mắt sáng, lông mượt, ăn uống tốt, phân khô thành khuôn.
Qua theo dõi thể trạng và hoạt động của thỏ thí nghiệm không thấy biểu hiện gì khác đặc biệt so với nhóm chứng trong tất cả số chuột đem thí nghiệm.
Theo dõi thể trọng thỏ sau 15 ngày và 30 ngày uống thuốc trọng lượng thỏ ở cả 3 lô: lô chứng, lô trị 1, lô trị 2 đều tăng so với trước khi nghiên cứu. Không có sự khác biệt về mức đọ gia tăng trọng lượng thỏ giữa lỗ chứng và các lô dùng thuốc với p>0,05. Như vậy liều thử độc tính bán trường diễn bằng Dong riềng đỏ đã không ảnh hưởng đến quá trình hấp thu thức ăn và sự phát triển thể chất của thỏ thí nghiệm.
Đánh giá trên các chỉ số: số lượng hồng cầu, thể tích trung bình hồng cầu, hàm lượng huyết sắc tố, hematocrit, số lượng bạch cầu, công thức bạch cầu, số lượng tiểu cầu trong máu thỏ.
Sau 15 ngày và 30 ngày uống thuốc các chỉ số đánh giá chức năng tạo máu của 3 lô thỏ thí nghiệm không có sự khác biệt trước sau và sự khác biệt giữa các lô với p>0,05.
Cây dong riềng đỏ hỗ trợ điều trị bệnh mạch vành
Để dánh giá ảnh hưởng của liều độc bán trường diễn trên gan, thận thỏ, nhóm nghiên cứu tiền hành xét nghiệm hoạt độ ALT, hoạt độ AST, hàm lượng Bilirubin toàn phần, hàm lượng protein toàn phần, hàm lượng Cholesterol, hàm lượng creatinin trong máu thỏ. Kết quả sau 15 ngày và 30 ngày uống thuốc, nhận thấy chức năng gan, thận của 3 lô thỏ thí nghiệm không có sự khác biệt trước sau và sự khác biệt giữa các lô với p > 0,05. Như vậy thử nghiệm độc tính bán trường diễn không ảnh hưởng đến chức năng chuyển hóa gan, thận thỏ thí nghiệm.
Nhóm thỏ chứng
Ranh giới giữa các tiểu thùy không rõ, khoảng cửa hẹp, ít mô liên kết. Trong gan không có hiện tượng xung huyết. Các mao mạch nan hoa có lòng rõ. Các tế bào gan có ranh giới rõ, nhân tròn, ít chất nhiễm sắc, đa số có một hạt nhân. Bào tương của tế bào gan mịn, có những hạt ưa bazơ.
Nhóm thỏ gây nhiễm độc uống Dong riềng đỏ liều trung bình
Cấu trúc của gan giống như cấu trúc gan của nhóm thỏ chứng
Nhóm thỏ gây nhiễm độc uống Dong riềng đỏ liều cao
Ranh giới giữa các tiểu thùy gan không rõ. Trong gan không thấy hiện tượng xung huyết ở các mạch. Một thỏ có 1 số tế bào có bào tương bị thoái hóa hốc, đặc biệt là ở xung quanh tĩnh mạch trung tâm tiểu thùy. Tuy nhiên, toàn bộ các tế bào gan có nhân bình thường.
Nhóm thỏ chứng
Tiểu cầu thận phân bố đều, kích thước khá lớn. Chùm mạch Malpighi và khoang Bowman rõ. Ống lượn gần thành dày, sẫm màu và không rõ lòng. Các đoạn khác của ống sinh niệu có cấu trúc điển hình. Mạch máu ở vùng vỏ thận có kích thước khá lớn.
Nhóm thỏ gây nhiễm độc liều trung bình
Nhìn chung không thấy biến đổi cấu trúc vi thể của mô thận. Tiểu cầu thận và các đoạn ống sinh niệu có cấu trúc điển hình. Không thấy sự khác biệt với nhóm chứng.
Nhóm thỏ gây nhiễm độc uống Dong riềng đỏ liều cao
Mạch máu vùng vỏ thận có nơi giãn nhẹ nhưng cấu trúc thành mạch bình thường, không có xuất huyết. Tiểu cầu thận và các đoạn của ống sinh niệu có cáu trúc bình thường. Không thấy những biến đổi khác biệt so với nhóm chứng.
Nhóm thỏ chứng
Động mạch vành có cấu trúc của loại động mạch cơ điển hình. Mô liên kết quanh động mạch dồi dào.
Mô cơ tim có cấu trúc lưới điển hình, có thể nhận rõ vân ngang của sợi cơ tim. Mô nút khó xác định. Mô liên kết mạch xen kẽ với lưới sợi cơ đều đặn, không thấy tình trạng sung huyết.
Nhóm thỏ gây nhiễm độc liều trung bình
Không thấy thay đổi cấu trúc vi thể động mạch vành và cấu trúc sợi cơ tim so với nhóm chứng. Có tình trạng giãn mạch, sung huyết từng vùng trong mô cơ tim.
Nhóm thỏ gây nhiễm độc liều cao
Ở mức vi thể, không thấy biến đổi cấu trúc hình thái động mạch vành và tế bào cơ tim. Tình trạng giãn mạch, sung huyết lan tỏa trong mô cơ tim, không thấy hình ảnh xuất huyết.
Tài liệu tham khảo: Tài liệu tham khảo: “Nghiên cứu dịch chiết dong riềng đỏ chữa thiếu máu cơ tim cục bộ”, mã số đề tài nghiên cứu khoa học B2005 – 04 – 46TĐ của Bác sĩ Hoàng Sầm – Đại học Y dược Thái Nguyên.
Biên tập bởi Cardocorz