Tiên lượng xấu nếu độ rộng vùng nhồi máu (nói đúng hơn, khối lượng vùng hoại tử) càng lớn, nếu vị trí mặt trước, có huyết áp hạ > 30 mmHg, có sốt …
Nhưng lại thấy tiên lượng xấu (thậm chí tử vong cao nhất) chủ yếu phụ thuộc vào sự xuất hiện các biến chứng như loạn nhịp tim nhất là rung thất ngay trong vòng 2 giờ đầu tiên, và suy bơm nhất là sốc do tim, phù phổi cấp.
Nguy cơ và tiên lượng nhồi máu cơ tim
Riêng về suy bơm thì Killip & Kimball đã lập bảng xếp loại phân ra 4 tầng I-IV nhằm tiên lượng mỗi nhồi máu cơ tim cấp sau lần khám đầu tiên:
Killip I - (hoàn toàn không ứ huyết phổi): Tử vong < 5%.
Killip II - (ran ứ đọng < 1/3 dưới, hoặc ngựa phi T3 đơn độc): Tử vong 10 - 20%.
Killip III - (phù phổi cấp do biến chứng suy thất trái nặng hoặc do biến chứng sa van hai lá cấp): Tử vong 35 - 45%.
Killip IV - trụy mạch và sốc do tim, đôi khi do nhồi máu cơ tim thất phải: Tử vong 75 - 85%.
Từ đó nảy sinh phân loại nhóm bệnh nhân nguy cơ cao và nhóm bệnh nhân nguy cơ thấp:
Xếp mỗi bệnh nhân đang nhồi máu cơ tim cấp vào nhóm nguy cơ cao hay nhóm nguy cơ thấp là dựa sự có mặt hay không một trong các biến chứng loạn nhịp tim, suy bơm (Killip III/IV), vỡ tim, huyết khối - thuyên tắc …
Do đó cùng là nhồi máu cơ tim cả nhưng tiên lượng khác xa nhau, và cả độ vất vả và khó khăn chữa trị khác xa nhau.
Đây là một khái niệm mới, rất hữu ích trong thực hành (1 ví dụ ai cần được vận động sớm, ai lại tuyệt đối cấm).
Nếu không được điều trị, tử suất trong 4 tuần lễ đầu 30 - 40%, tùy nước, trong số chết này thì khoảng ½ dồn vào giờ đầu, thường là chưa vào viện, mà chủ yếu do RT và loạn nhịp tim khác.
Biên tập: Cardocorz - Dong riềng đỏ