Là cơn đau thắt ngực với đặc điểm sau:
Vị trí: Sau xương ức, đau vùng giữa ngực hoặc vùng ngực trái.
Hướng lan: Xuống mặt trong cánh tay , cẳng táy trái, lan đến ngón tay út phía bên trái, tuy nhiên nó có thể lan lên vai ra sau lưng, lên xương hàm, răng và lên cổ.
Tính chất đau: Có thể mơ hồ kiểu như có gì chẹn ngực, co thắt hoặc là như là có vật gì nặng đè ép lên ngực. Người bệnh hay không có cảm giác như là đau. Có khi chỉ có cảm giác hơi nặng ngực. Nhiều trường hợp còn không thấy đau.
Thời gian: Đau ngắn và kéo dài không quá vài phút.
Đau thường khởi phát sau gắng sức, kể cả gắng sức về thể chất và tinh thần, giảm và mất khi nghỉ ngơi hoặc là dùng thuốc giãn mạch vành. Lạnh cũng là yếu tố dễ gây khởi phát cơn đau.
Đau thắt ngực ổn định là một thể lâm sàng của cơn đau thắt ngực
Mới khởi phát cơn đau thắt ngực nặng (< 2 tháng) và/hoặc xảy ra cơn = 3 cơn/ngày.
Đau khi nghỉ ngơi hoặc là chỉ khi hoạt động rất nhẹ nhàng.
Cơn đau thắt ngực tăng tiến: thuộc loại ổn định nhưng gần đây nặng hơn, đau kéo dài hơn, hay xảy ra hơn và xảy ra với gắng sức nhẹ hơn trước.
Bệnh nhân có một trong 3 tiêu chuẩn trên được gọi là có cơn đau thắt ngực không ổn định (Harrison 2005).
Còn được gọi cơn đau thắt ngực Prinzmetal. Xảy ra trên mạch vành hoàn toàn bình thường hoặc là có mảng xơ vữa gây hẹp gần vị trí của co thắt. Đau thắt ngực đặc tính tương tự nhưng mà trầm trọng hơn và xảy ra điển hình khi nghỉ ngơi cùng với hình ảnh đoạn ST chênh lên rất cao trên ECG. Lưu ý là co thắt vành có thể gây nên nhồi máu cơ tim cũng như các rối loạn nhịp ác tính. Chẩn đoán xác định dựa trên chụp động mạch vành có tiêm TM Methergin (ergonovine).
Được phát hiện bởi ghi Holter hoặc là trắc nghiệm ECG gắng sức chủ yếu xảy ra ở những người có thiếu máu cục bộ cơ tim có triệu chứng. Ghi nhận có biến đổi ST-T nhưng vô triệu chứng mặc dù có bệnh mạch vành.
Xảy ra khi tắc một hoặc nhiều nhánh của mạch vành. Nhồi máu cơ tim (nhồi máu cơ tim) là sự hoại tử thiếu máu nặng và hệ thống cơ tim với điện tích tổn thương bằng hay trên 2cm2.
Triệu chứng lâm sàng: Đau ngực tương tự như là cơn đau thắt ngực tuy nhiên cường độ mạnh hơn nhiều và kéo dài hơn (> 30 phút), ít thuyên giảm khi nghỉ ngơi và sau khi dùng nitroglycerine. Tuy nhiên 25% của nhồi máu cơ tim là im lặng về mặt lâm sàng.
Nhồi máu cơ tim là một thể lâm sàng cơn đau thắt ngực
Triệu chứng cận lâm sàng:
Điện tâm đồ:
Nhồi máu có sóng Q: ST chênh lên, T đảo ngược, sóng Q hoại tử.
Nhồi máu không có sóng Q: ST chênh xuống, biến đổi dai dẳng ST-T mà không có xuất hiện sóng Q.
Men: Tăng CPK, CPK-MB, GOT, LDH, Troponin T.
Chẩn đoán:
Theo Tổ chức Y tế thế giới nhồi máu cơ tim được chẩn đoán xác định khi có hai trong 3 dấu hiệu sau: cơn đau thắt ngực biến đổi, thay đổi ECG theo tiến triển của bệnh và sự gia tăng men tim.
Một số trường hợp không có thể chẩn đoán xác định nhồi máu cơ tim mà chỉ có thể nói có thể có nhồi máu cơ tim. Thường thì có triệu chứng lâm sàng điển hình rất gợi ý nhưng mà thiếu bằng chứng khách quan trên ECG và men. Nếu lâm sàng nghi ngờ nhiều thì có thể là nhồi máu cơ tim nhỏ. Trước một bệnh nhân nam giới >35 tuổi, nữ giới >50 tuổi có đau ngực thì phải xem xét điều tra có nhồi máu cơ tim hay không. Phải chẩn đoán phân biệt với đau do viêm phổi, tắc động mạch phổi, viêm màng ngoài tim, gãy xương sườn,co thắt thực quản, phình tách động mạch chủ và những tình huống gây bệnh cảnh đau bụng cấp tính do bệnh trong ổ bụng.
Biên tập: Cardocorz - Dong riềng đỏ