Hình ảnh nhồi máu cơ tim
Khi thiểu năng vành xảy ra một cách đột ngột, cục máu đông được sinh ra bít lấp hoàn toàn một hoặc nhiều nhánh động mạch vành, nhiều khi là do một căng thẳng, hay stress (cảm xúc, cố gắng, bị lạnh…) tác động lên cơ thể thì có thể phát sinh ra cơn nhồi máu cơ tim.
Thông thường, vùng cơ tim bị nhồi máu có một vùng trung tâm bị hoại tử, rồi đến một vùng tổn thương bao quanh nó gọi là vùng tranh tối tranh sáng và ngoài cùng là một vùng thiếu máu bao xung quanh vùng tổn thương.
Như thế, điện tâm đồ sẽ thu được cả hình ảnh 3 loại dấu hiệu đó, nhưng không phải cùng một lúc mà thường biến chuyển qua ba giai đoạn chính dưới đây.
Trong 1đến 2 ngày đầu.
Sóng cong vòm: Có thể đã xuất hiện sóng Q bệnh lý, QT dài ra.
Từ vài ngày đến vài tuần là giai đoạn hay gặp nhất: đoạn ST chênh lên thấp hơn, T âm sâu, nhọn và đối xứng (gọi là sóng vành Pardee). Đồng thời thấy sóng Q bệnh lý rõ rệt và đoạn QT dài ra.
Trong hai giai đoạn này, thường hay có xuất hiện kèm thêm cả các loại rối loạn nhịp tim hay blốc nhĩ – thất, nhất là ở loại nhồi máu cơ tim vách (liên thất).
Từ vài tháng đến vài năm: ST đã trở về đồng điện, sóng T có thể dương hay vẫn âm, còn sóng Q bệnh lý thì thường hay tồn tại vĩnh viễn.
Các giai đoạn trên điện tâm đồ nhồi máu cơ tim
Các dấu hiệu kể trên không phải là xuất hiện ở tất cả các chuyển đạo trên điện tâm đồ mà chỉ thấy rõ ở chuyển đạo nào có điện cực đặt trúng (trực tiếp) lên trên vùng bị nhồi máu nhồi máu: vì vậy người ta gọi các dấu hiệu đó là hình ảnh trực tiếp. Trái lại, chuyển đạo nào có điện cực đặt ở vùng đối diện của vùng bị nhồi máu sẽ thu được những dấu hiệu trái ngược, gọi là dấu hiệu“soi gương” của các dấu hiệu trên: Ta gọi đó là hình ảnh gián tiếp.
Nhồi máu có thể xuất hiện ở nhiều vùng rộng hẹp khác nhau của tâm thất trái (thất phải rất ít khi bị). Tùy theo vùng bị tổn thương, người ta chia ra 3 loại nhồi máu chính và hay gặp nhất (dưới thượng tâm mạc) với các dấu hiệu ở giai đoạn 2 (giai đoạn bán cấp) sau đây:
Tức là bị ở thành trước tâm thất trái và phần trước vách liên thất.
Hình ảnh trực tiếp (sóng QS, ST chênh lên, sóng T âm) ở chuyển đạo V2, V3, V4.
Đôi khi sóng T thấp hay âm ở chuyển đạoV5, V6, aVL, D1 (T1>T3) do vùng thiếu máu ăn lan sang thành bên (trái) của thất trái.
Bị ở phần ngoài thành trước và thành bên của tâm thất trái.
Hình ảnh trực tiếp (sóng Q sâu và rộng, ST chênh lên, sóng T âm sâu) ở chuyển đạo V5, V6, D1, aVL.
Hình ảnh gián tiếp (đoạn ST chênh xuống, sóng T dương rất cao) ở D3 đôi khi aVF.
Bị ở thành sau và dưới của tâm thất trái.
Hình ảnh trực tiếp (sóng Q sâu, rộng, ST chênh lên, sóng T âm sâu) ở D3, aVF, có khi cả D2.
Hình ảnh gián tiếp (T dương cao, có thể nhọn và đối xứng, ST có thể chênh xuống) ở chuyển đạo V1, V2, V3, V4.
Điện tâm đồ nhồi máu cơ tim sau dưới
Chủ yếu là thành trước - bên: đoạn ST chênh xuống, đôi khi T biến dạng ở chuyển đạo V5, V6, D1, aVL.
Đôi khi là thành sau dưới: đoạn ST chênh xuống ở D3, D2, aVF.
Có nhiều trường hợp, thiểu năng vành gây ra nhồi máu cơ tim cũng đồng thời làm một nhánh của bó His bị kém nuôi dưỡng sinh ra tình trạng block nhánh, các dấu hiệu của block nhánh sẽ phối hợp với các dấu hiệu cơ bản của nhồi máu cơ tim. Ví dụ:
Blốc nhánh trái + nhồi máu cơ tim trước - bên: Block nhánh trái.
Blốc nhánh phải + nhồi máu cơ tim sau - dưới: Q sâu ở D3, D2 + dạng rSR’ ở V1, V2.
Block nhánh phải + nhồi máu cơ tim trước vách: Ở V1, V2, V3 (V4) có dạng QR với nhánh nội điện muộn.
Trong tất cả các trường hợp trên đều có thể có STT hỗn hợp.
Khi phát hiện có hình ảnh điện tâm đồ nhồi máu cơ tim thì các bác sĩ cần tích cực cấp cứu cho bệnh nhân, hoặc khi các bác sĩ ở tuyến dưới không có đủ các phương tiện kỹ thuật hiện đại nên tiến hành sơ cứu và chuyển ngay bệnh nhân lên các tuyến trên để cấp cứu và điều trị kịp thời.
Biên tập Cardocorz - Dong riềng đỏ